Bài 11: Tôi tư duy nên tôi tồn tại

Xuất bản

Trong

Bạn có biết một vài câu nói tưởng như đơn giản và ngắn gọn lại có sức lay động sâu sắc đến nền triết học cũng như rất nhiều ngành khoa học liên quan khác trên toàn thế giới? Ở đây, câu nói “tôi tư duy nên tôi tồn tại” của Descartes là một trong những câu nói như vậy. Qua bài học này chúng ta sẽ hiểu được tại sao câu nói súc tích ấy lại có tầm ảnh hưởng và nổi tiếng đến vậy, cũng như cách để hiểu được ý nghĩa của nó.

Nội dung tổng quát

Như chúng ta đã biết ở phần 1: Tri thức là gì, thì đã có nhiều triết gia nêu lên những cách tiếp cận khác nhau để cố gắng định nghĩa hai từ “tri thức”. Cũng kèm theo những nỗ lực ấy là sự nảy sinh của hiện tượng hồi quy vô tận và những thách thức được đặt ra bởi chủ nghĩa hoài nghi là: có một nhóm niềm tin đặc biệt nào có thể tự biện minh mà không yêu cầu ở chúng ta việc đó?

Tượng nhà triết học Descartes kèm câu nói nổi tiếng của ông.

Các triết gia như Descartes và Augustine nghiêng về cách định nghĩa tri thức theo chủ nghĩa nội liên kết. Cụ thể, họ cho rằng  chúng ta có thể nhận biết tính đúng đắn của một niềm tin ngay từ chính bản thân chúng ta. Hơn nữa những niềm tin này đóng vai trò làm tiêu chuẩn cho tất cả những niềm tin khác, bao gồm những niềm tin có khả năng đúng cao nhất.

Chúng ta có thể tìm được tiêu trí của sự thật và biện minh ngay từ việc xem xét ý tưởng hay suy nghĩ xuất phát từ chúng ta. Hãy nhớ lại lời phản biện của Augustine với chủ nghĩa hoài nghi học viện: “thật ngớ ngẩn khi cho rằng có một số khẳng định thì giống thật hơn những khẳng định khác khi chúng ta chưa biết rõ sự thật là gì”.

Đối với Augustine và Descartes, thì những hiểu biết về bản thể (self) là thứ sẽ cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn của sự thật và loại bỏ được những tồn nghi.

Chính nhờ việc tìm tòi trong sự tự phản biện và tự suy ngẫm mà tự nhiên chúng ta sẽ được dẫn dắt đến câu hỏi “tư duy là gì?” hay “bản chất của việc tư duy là gì?”. Về vấn đề này, Descartes đã có một hướng tiếp cận nổi tiếng là: chúng ta có thể trực tiếp tư duy và cảm nhận được sự tồn tại mà không cần đến thể xác. Hay nói cách khác, triết gia này cho rằng: tâm trí và thể xác là hai sự vật tồn tại độc lập.

Đứng trên lập trường của nhị nguyên luận, Descartes nhận định thể xác và tâm trí là hai khía cạnh tồn tại độc lập. Ngoài ra, ông cũng đưa ra một gợi ý rằng chúng ta không thể tìm tòi hay khám phá được gì từ các nghiên cứu về khoa học tâm trí (nghĩa là khoa học về nhận thức hay khoa học về hành vi là vô nghĩa), bởi theo lời nhận định trên, thể xác tách biệt tâm trí và dường như không thể dùng thể xác để đào sâu về tâm trí được.

Tuy nhiên, theo chính suy nghĩ của chúng ta cũng như sự biện minh ở các bài sau ta sẽ thấy lời khẳng định trên là không đúng. Dù vậy, đồng tình hay là không thì những khẳng định đứng trên lập trường thuyết nhị nguyên của Descartes vẫn có ảnh hưởng lớn đến những cuộc tranh luận về bản chất và chức năng của tâm trí, cũng như những tranh luận về trí thông minh của động vật hay máy móc.

Quay trở lại với câu nói “cogito ergo sum”, một số người khi nhắc đến câu nói nổi tiếng này đã bổ sung thêm một vế phía trước: “dubito ergo cogito ergo sum”, dịch nghĩa: “I doubt therefore I think therefore I am” trong tiếng Anh và dịch ra tiếng Việt: “tôi nghi ngờ, tôi tư duy, tôi tồn tại”. Và dù chúng ta biết đến nhiều với cách nói “tôi tư duy tôi tồn tại” thì trong khuôn khổ bài học này chúng tôi sẽ dùng từ “suy nghĩ” (think) thay cho “tư duy” để gần hơn với nguyên bản. Ngoài ra, để bài viết không trở nên rườm rà và đánh đố bằng các cụm khái niệm, tôi sẽ gọi tắt lập luận “tôi tư duy, tôi tồn tại” là cogito.

Lưu ý, đây là một trong những bài học trọng điểm của khóa học, nếu các bạn không thể lĩnh hội nó ngay trong lần đọc đầu tiên, hãy cố gắng đọc lại hoặc nghiền ngẫm cho đến khi thật hiểu. Tôi tin rằng, một khi các bạn đã nắm được mấu chốt vấn đề này, một điều kỳ diệu sẽ xảy ra trong tư duy của bạn.

Suy luận theo logic tự nhiên

Chủ nghĩa hoài nghi phổ quát (global scepticism) cho rằng không thể có một khẳng định nào là tuyệt đối đúng cả, bởi có một khả năng là bên trong tâm trí chúng ta nuôi giữ một con quỷ lừa dối có quyền năng vô hạn, và nó có thể xoay chiều những suy tư của chúng ta.

Tuy nhiên với những người phản lại trường phái hoài nghi này, họ đặt câu hỏi rằng liệu một con quỷ như thế có thể tồn tại mà chúng ta không biết? Liệu có gì mâu thuẫn không nếu ta nghi ngờ hoặt động suy nghi của một ai đó? Hoặc nghi ngờ là gì nếu nó không phải là một loại suy nghĩ.

Chính những câu hỏi trên đã trở thành nền tảng cho lập luật cogito nổi tiếng, khi cả thánh Augustine và Descartes đều cho rằng chúng ta không thể dùng lý trí để nghi ngờ chính những suy nghĩ của chúng ta cũng như không thể dùng lý trí để nghi ngờ sự tồn tại của chính mình. Và những lập luật trên chính là thứ vũ khí sắc bén nhất để đánh bại tư tưởng hoài nghi.

“Nếu ai đó nghi ngờ, nghĩa là anh ta phải đang sống. Nếu anh ta nghi ngờ, anh ta phải nhớ tại sao anh ta nghi ngờ. Nếu anh ta nghi ngờ, anh ta phải hiểu tại sao anh ta nghi ngờ. Nếu anh ta nghi  ngờ, anh ta phải mong muốn được biết đúng về một điều gì đó. Nếu anh ta nghi ngờ, anh ta phải đang suy nghĩ. Nếu anh ta nghi ngờ, anh ta phải biết rằng anh ta không biết. Nếu anh ta nghi ngờ, anh ta phải biết rằng anh ta không thể tán thành một cách tùy tiên. Và khi một ai bắt đầu nghi ngờ, họ không thể nghi ngờ ngược lại tất cả các điều trên vì nếu những điều trên đều đáng nghi thì họ không thể thực hiện được bất cứ sự nghi ngờ nào hết.” [On the Trinity, X. 10.14; 2002:55-56]

Ngoài ra Descartes cũng có một lập luận tương tự để phản bác vấn đề quỷ dối lừa:

“Cứ để nó lừa dối tôi bao nhiêu tùy thích nhưng chắc chắn nó sẽ không bao giờ lừa dối được tôi khi tôi đang nghĩ một điều gì đó. Bởi vậy, sau khi cân nhắc mọi sự biện minh thật kỹ lưỡng, tôi kết luận rằng: khẳng định tôi tư duy tôi tồn tại là chắc chắn đúng với bất kỳ khi nào tôi thốt ra điều đó hoặc điều đó xuất hiện trong tâm trí tôi. [Second Mediation; 2003:24]

Bây giờ, chúng ta thử suy ngẫm lại khẳng định cogito – tôi nghĩ tôi tồn tại, tiền đề “tôi nghĩ” có được sự ủng hộ vững chắc đến thế vì nếu ta nghi ngờ nó thì tức là ta đang xác nhận lại nó, một lần nữa. Bởi nếu “tôi nghi ngờ rằng tôi suy nghĩ”, điều đó đồng nghĩa với việc “tôi không nghĩ rằng mình suy nghĩ”, đến đây thì hai vế tự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khẳng định “tôi nghĩ” luôn đúng, ít nhất là trong lúc nó được nghĩ đến.

Đến đây chúng ta có thể cho đã thành công trong việc biện minh tiền đề “tôi nghĩ” là đúng. Tuy nhiên, điều gì sẽ biện minh cho “tôi tồn tại”? Bởi từ “tôi nghĩ” không có con đường hiển nhiên nào dẫn chúng ta đến thẳng “tôi tồn tại”. Và kể cả khi có ai đó khẳng định được rằng “bất cứ cái gì suy nghĩ đều tồn tại” thì điều này không thể tự nhiên được coi là đúng và con quỷ dối lừa có thể lần theo dấu vết tùy tiện ấy mà tìm đến chúng ta.

Điều thú vị là chính Descartes cũng phủ nhận thành công của lập luận cogito phụ thuộc vào khẳng định “bất cứ cái gì suy nghĩ đều tồn tại”. Thay vào đó ông cho rằng: bất cứ một khẳng định tổng quát nào cũng đều phụ thuộc vào kết luận của cogito để trở thành đúng trong trường hợp nhất định. Và nếu ông giả định khẳng định cogito luôn đúng, thì lúc này chính Descartes đã mắc phải lỗi ngụy biện vòng tròn. Và nếu Descartes mắc lỗi ngụy biện vòng tròn, thì ta hãy nhớ lại điều ông đã khẳng định khi ông cho rằng nếu việc suy nghĩ tồn tại thì phải có một đối tượng thực hiện việc đó. Ở đây Decartes dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất là “tôi”.

Vậy phải chăng Descartes đã giả định ra điều đó?

David Hume không cho là vậy. Hume cho rằng khả năng lớn Descartes có thể đã khẳng định được hành động suy nghĩ có tồn tại, tuy nhiên ông không thể rút ra kết luận về đối tượng thực hiện hành động suy nghĩ này. Và Descartes cũng dường như thiên về hướng suy nghĩ rằng: “ý nghĩ không phải một loại thực thể nào đó trôi lơ lửng mà không có một đối tượng cho việc này”, vì thế ông đã gán cho nó một đối tượng.

Suy luận theo logic thực dụng

Jaakko Hintakka là một triết gia đương đại, ông lại hiểu lập luận cogito theo một cách khác. Với ông, lập luận này cần được phân tích trên khía cạnh “vận hành” của nó. Cụ thể hơn, Hintikka dựa vào thực tế rằng không thể nghĩ hoặc nói: “tôi nghi ngờ rằng tôi đang nghĩ” hoặc “tôi không tồn tại” vì nó mâu thuẫn hết sức. Ngoài ra ông cũng lập luận rằng nếu “tôi suy nghĩ” bằng cách nào đó dẫn đến “tôi tồn tại” thì việc truy ngược từ “tôi tồn tại” sang “tôi suy nghĩ” chẳng có mục đích gì.

Bạn đơn giản có thể nói rằng “tôi nghĩ”. Và nếu “tôi nghĩ” không tự nhiên dẫn đến “tôi tồn tại” thì “tôi nghĩ nhưng tôi không tồn tại” cũng không bị coi là mẫu thuẫn với logic tự nhiên. Tuy nhiên Hintikka cho rằng “tôi tồn tại” của Descartes có thể được suy thẳng ra từ “tôi nghĩ” mà không cần thông qua logic tự nhiên bởi nó thuộc về tính thực dụng (pragmatically).

Tuy hai khái niệm thuộc về tính thực dụng là mâu thuẫn thực dụng và nhất quán thực dụng không được định nghĩa rộng rãi nhưng chúng ta có thể hiểu nó ở mức độ đại khái là: nếu một phát biểu được coi có tính nhất quán thực dụng khi nó có một bối cảnh rõ ràng để chúng ta có thể đánh giá nó một cách hợp lý. Còn một khẳng định được coi là mâu thuẫn thực dụng là khi bản thân nó không chứa đựng sự mâu thuẫn nào nhưng chính việc chúng ta đánh giá nó sẽ quyết định điều kiện để nó đúng hay sai.

Cũng theo Hintikka thì, khi nói hay nghĩ rằng “tôi suy nghĩ tôi tồn tại” sẽ là mâu thuẫn thực dụng chứ không phải mâu thuẫn logic tự nhiên. Và vì thế, sẽ có sự tự biện minh một cách thực dụng khi đánh giá “tôi suy nghĩ, tôi tồn tại”.

Ở đây, có ít nhất 2 vấn đề với cách hiểu Hintikka:

Một là không có gì khẳng định rõ ràng rằng nhất quán thực dụng và mâu thuẫn thực dụng là đủ để kết luận về tính đúng sai của một khẳng định. Ví dụ, ta không thể nghĩ hay đánh giá một cách nhất quán hai khẳng định “tôi nghi ngờ rằng tôi nghĩ” hay “tôi không tồn tại”.

Tại sao không thể thốt ra một khẳng định nào thì khẳng định đó phải là sai?

Hãy xem một ví dụ của vấn đề này trong “nghịch lý người nói dối”. Sẽ là mâu thuẫn thực dụng khi nói hay viết “Câu văn này là sai” nhưng chúng ta không thể suy ra bất kì điều gì về tính đúng sai của câu văn này mà chỉ dựa vào mỗi mình câu văn đó. Nếu nó sai, nó đúng và nếu nó đúng thì nó sai.

Vấn đề thứ hai là mối quan hệ giữa việc nhận thức được những suy nghĩ của tôi và sự thật rằng tôi tồn tại không thật sự rõ ràng. Nói cách khác, tại sao tôi cần phải biết rằng “Tôi nghĩ”. Tôi không thể xác nhận sự tồn tại của chính mình một cách thực dụng đơn giản bằng việc đánh giá khẳng định “Tôi tồn tại” hay sao? Và tôi không thể đạt được kết quả tương tự bằng việc thốt ra bất kì một khẳng định nào khác hay sao?

Thomas Hobbes (1588-1679) đã đưa ra phản biện với tác phẩm Meditations của Descartes rằng “Tôi đang đi bộ, do vậy tôi tồn tại”. Bởi Hobbes cho rằng chỉ cần có sự tồn tại của bất kì một hành động nào là đủ để chứng minh một đối tượng có tồn tại thì hành động “đi bộ” cũng có thể thay thế tốt cho hành động “suy nghĩ”.

Tuy nhiên Decartes và Augustine đã phản bác lại: biết rằng mình đang nghĩ phải là điều kiện bắt buộc để rút ra kết luận rằng mình tồn tại.

Bạn có thể phản bác bằng những lập luận mang tính thực dụng rằng: bất kì khẳng định nào thay thế cho khẳng định “tôi suy nghĩ” đều có thể bị nghi ngờ. “Tôi đang đi bộ” khó đúng nếu như khẳng định “tôi có chân” bị lung lay. Và thực tế, đây chính là những gì Descartes đã phản biện lại Hobbes, tuy nhiên thời bấy giờ vẫn chưa xuất hiện chủ nghĩa thực dụng như Hintikka sử dụng. Điều quan trọng là bạn không thể phủ nhận đó là bạn – người thốt ra ý nghĩ đó tồn tại – khi bạn thốt ra điều gì đó.

Kết nối trực tiếp với cái tôi bản thể

Quan sát cuối cùng này gợi ý một cách khác để tiệm cận lập luận cogito. Hai cách vừa nêu ở trên (suy luận theo logic tự nhiên và thực dụng) có một điểm chung là họ đều giả định rằng lập luận cogito diễn tả mối quan hệ giữa người suy nghĩ và hai khẳng định (“tôi suy nghĩ” và “tôi tồn tại”), mỗi vế được giả định là tự biện minh cho chính nó.

Tuy nhiên, sự liên kết logic giữa hai khẳng định trên có vẻ đã không được làm rõ ràng và từ đó dẫn đến việc đáng lo ngại là con quỷ dối lừa có thể mò đến và che mắt chúng ta.

Nhưng thế nào nếu “tôi suy nghĩ” trực tiếp liên kết người suy nghĩ với tâm trí của người đó thay chỉ đơn giản là phát biểu dưới dạng khẳng định? Và như vậy đó sẽ không còn là mối quan hệ gián tiếp tới bản thể nữa mà tức là khi nghĩ “tôi nghĩ”, nghĩa là tôi trực tiếp cảm nhận được bản thể của chính mình.

Để có được sự kết nối trực tiếp với bản thể của chính mình thì cần phải có một loại khẳng định nhất định và khẳng định đó phải thỏa mãn điều kiện: đối tượng của khẳng định và bản thân “tôi” phải là hai thứ đồng nhất. “Tôi đi bộ” sẽ không giúp tôi biết bản thể của mình nếu tôi ngờ rằng bất kì cái gì cũng có thể chạy/di chuyển mà không phải tôi (ví dụ robot chẳng hạn).

Thế nhưng nếu “tôi đi bộ” là cách nói tắt của “tôi nghĩ rằng tôi đi bộ” thì vấn đề lại khác. Nhưng như vậy thì sức nặng của lập luận sẽ được quyết định bởi mệnh đề “tôi suy nghĩ” chứ không liên quan gì đến thực tế đang đi bộ của khẳng định. Và tôi có thể nghĩ rằng tôi đang đi bộ trong khi thực ra tôi đang nằm chợp mắt trên giường hoặc thậm chí là không có ai đi bộ cả.

Nếu điều này đúng, có vẻ “tôi tồn tại” được suy luận ra bởi sự tự nhận thức đã đảm bảo chỉ trong suy nghĩ và không có một sự nghi ngờ nào có thể xen vào được. Như Descartes đã nói: vì con quỷ chỉ có thể lừa dối tôi về sự hiện diện của mình khi nghĩ “tôi suy nghĩ” bằng cách làm cho tôi trở nên vô thức mà thôi, nhưng một khi tôi bắt đầu nghĩ những ý nghĩ của tôi rồi, thì rõ ràng là đã quá muộn.”

Tất nhiên, việc chứng minh sự tồn tại của tâm trí để chứng minh thể xác đó tồn tạihongf đánh bại chủ nghĩa hoài nghi là một nhiệm vụ rất khó khăn. Và theo như Augustine, ông cho rằng thật vô lý khi tin có một khoảng cách giữa vẻ bề ngoài và bản chất của thế giới khách quan. Trong tác phẩm “Sixth Meditation”, Descartes đã đi tới kết luận rằng chúng ta có thể tin tưởng ra các giác quan của chúng ta ngay khi có hoặc không có một thế giới vật chất bên ngoài tâm trí. Ông cũng lập luận rằng: các giác quan là đáng tin cậy trong việc báo cho chúng ta rằng có một thế giới khách quan tồn tại chứ không phải dạy cho chúng ta về bản chất của thế giới đó.

Trong Sixth Mediation, Descartes đã suy từ những kết luận trên đến câu hỏi: nếu thân xác tồn tại, tâm trí có là thứ đồng nhất với thể xác hay không? Và ông đã đưa ra một kết luận trái ngược: tâm trí và thể xác là hai thứ tồn tại độc lập, tách rời!

Đọc thêm về Descartes: https://plato.stanford.edu/entries/descartes/

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *